Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2017

ĐỂ CÓ MỘT BÀI VĂN CẢM NHẬN TỐT ?
Vậy làm thế nào để có một bài văn cảm nhận tốt? Để có một bài văn cảm nhận tốt, yêu cầu đầu tiên là bạn phải nắm được nội dung của tác phẩm. Bạn hiểu được tác phẩm viết về chủ đề gì, có những nhân vật nào, có giá trị nội dung và nghệ thuật gì, có cái gì đặc biệt hay nổi bật không, với tư cách là một độc giả, bạn đánh giá về tác phẩm như thế nào? Sau khi đảm bảo nắm chắc nội dung tác phẩm, bạn cần định hướng về nội dung mà bạn sẽ trình bày trong bài viết của mình. Ở đây, bạn cần đảm bảo bài văn của mình trả lời được các câu hỏi: Tác phẩm cần phân tích là gì? Do ai sáng tác? Tác phẩm viết về chủ đề gì? Nếu là câu chuyện thì cốt truyện là gì? (Tóm tắt lại câu chuyện trong một đoạn văn ngắn) Nội dung của tác phẩm có gì hay, hấp dẫn? Có gì còn hạn chế? Nghệ thuật xây dựng tác phẩm có gì đặc sắc. Sau khi định hướng cơ bản về bài làm, bạn bắt tay vào viết. Khi viết, cần chú ý phân biệt rạch ròi giữa văn cảm nhận và phân tích thông qua hệ thống luận điểm. Cạnh đó, ở văn cảm nhận, kĩ năng bình luận, đánh giá của bạn cần được vận dụng ở mức tối đa. Bạn nên có sự bình bàn về nội dung tác phẩm, có sự liên hệ, đánh giá khách quan về tác phẩm, tác giả và những kiến thức văn học liên quan. Tóm lại, làm bài văn phân tích hay cảm nhận đều đòi hỏi kiến 
Đ bài : Giai thích câu ca dao :
                     “ Bu ơi thương ly bí cùng
               Tuy rng khác ging nhưng chung mt giàn ”
                                     -------------------
                                       BÀI LÀM     
         Tục ngữ , ca dao chính là kết tinh của những triết lí sống sâu sắc, là đạo lí muôn đời của một dân tộc. Theo thời gian , những câu ca ấy sẽ dần trở thành bài học sâu sắc , đầy thấm thía để lại cho thế hệ sau. Có những câu tục ngữ dạy chúng ta phải sống sao cho đúng với nhân cách một con người , lại có câu ca dao khuyên chúng ta sống đoàn kết , hỗ trợ lẫn nhau nhưng khi hoạn nạn , khó khăn . Trong đó , có những câu nói răn dạy ta phải biết yêu thương, dù không cùng huyết thống nhưng chung một nguồn gốc thể hiện tinh thần “tương thân
tương ái ”, “lá lành đùm lá rách”,  tiêu biểu là câu :
                            “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
                  Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
         Dưới hình thứ của một câu thơ lục bát giản dị , tác giả dân gian đã khắc họa lên một hình ảnh giản dị ,gửi gắm một bài học sâu sắc về đạo lí làm người tới thế hệ sau . Trước hết , ta phải hiểu về câu tục ngữ . “ Bầu ” và “bí” ở đây là hai loại rau ăn quả được trồng nơi rẻo đất góc vườn , tuy khác giống nhưng chung một giàn. Vì cùng được trồng chung một mảnh đất , bắc chung giàn tre nên càng gần gũi, thân thiết tựa như hai anh em . Bầu có thân mềm, bí cũng có thân mềm . Vậy nên , bầu phải tựa vào bí mới sống được , bí cũng vậy. Gian đổ thì bí không sống được , bầu cũng vạ lây . Bầu và bí gắn liền với nhau như thể tay chân , cùng chung số phận cho nên bầu và bí không thể ghét bỏ nhau . Bầu không vì bí xấu, bí cũng chớ vì hoa của bầu màu trắng không duyên mà xa lánh nhau. Vì sao vậy ? Vì bầu và bí chung một điều kiện và hoàn cảnh sống. Những ngày mưa, bầu và bí cùng tắm chung dưới làn nước mát mẻ ngọt lành. Những ngày hạn hán , bí héo , bầu cũng quắt queo. Nếu chẳng may gặp cơn gió bão, thân bí giập, quả bí rụng, có lẽ nào bầu một mình tươi tốt như xưa.Bầu và bí cùng được trồng trên một mảnh đất , dù trù phú hay bạc màu , cùng do một tay người chăm bón.
           Tuy nhiên , ta kể chuyện bầu bí không có nghĩa chỉ đơn thuần là nói chuyện cây cỏ . Ngay cả con người cũng vậy , chúng ta đều chung điều kiện sống , hoàn cảnh sống .Trong cuộc sống , mỗi cá thể đơn lẻ đều có sự liên kết với nhau Chúng ta có quê hương là có đồng hương, có sự gắn kết. Vậy nên, ta phải biết yêu thương con người.
           Trong cuộc sống , có ai dám khẳng định rằng từ khi sinh ra tới bây giờ không cần bất kì sự giúp đỡ của ai. Trên thực tế , không ai có thể sống đơn lẻ . Trong gia đình , ta có cha mẹ là những người luôn đồng hành cùng ta. Trong trường học, thầy cô , bạn bè sát cánh bên ta.Mở rộng hơn là xã hội , ta có những người đồng nghiệp.Vì vậy, trong bất khì hoàn cảnh nào ,ta phải biết nhường nhịn , thương yêu lẫn nhau để tạo nên một khối đoàn kết vững chắc .Có đoàn kết thì mới có sức mạnh.
          Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều ca dao tục ngữ cũng khuyên ta phải yêu thương con người như câu :
                       “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
              Người trong một nước phải thương nhau cùng”
          Lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta chính là một minh chứng hùng hồn về điều ấy. Suốt 4000 năm lịch sử , từ những cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Bà Trưng , Bà Triệu…đến những cuộc kháng chiến  chống Mỹ , chống Pháp , tất cả đều nói lên một tinh thần đáng quý. Đó là đều là nhờ tình yêu thương lẫn nhau. Nhân dân ta làm nên chiến thắng từ hai bàn tay trắng mà không vũ khí , không bom đạn hiện đại ,…. Mỗi người Việt Nam lúc bấy giờ đều một lòng từ miền xuôi đến miền ngược , già trẻ , gái trai đều coi nhau là anh em một nhà tuy khác nhau về giọng nói , nguồn gốc nhưng đều chung nhau một tình đồng bào.
          Ngày nay , tuy nước ta đã hòa bình nhưng vẫn còn những hoàn cảnh khó khăn. Những trẻ em mồ côi , những người già không nơi nương tựa … Lúc này , chúng ta phải phát huy tinh thần “tương thân , tương ái ”, “lá lành đùm lá rách” bằng những hành động thiết thực như : mua tăm ủng hộ người nghèo , ủng hộ tiền ,…Tuy đó chỉ là những hành động rất nhỏ nhưng điều đó đã có thể đổi lấy nụ cười trên môi mỗi con người.
                        Tóm lại , qua hàng ngàn năm , câu tục ngữ vẫn là một bài học vô cùng đúng đắn để thế hệ sau noi theo.Đối với em , em sẽ cố gắng trau dồi tình yêu thương trong tâm hồn để có thể trở thành một công dân có ích cho xã hội.
          

 Sưu tầm tham khảo


MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ CẦN NẮM VỮNG - Minh Chính

I. SO SÁNH
Cần nhớ rằng: Khi chúng ta nói: “Con hơn cha là nhà có phúc” thì chúng ta có một phép so sánh logic hay được gọi là so sánh chính xác. Phương thức so sánh mà chúng ta đang trao đổi ở đây là so sánh hình ảnh, hay còn được gọi là so sánh nghệ thuật.
I.Khái niệm:
So sánh  là sự đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác loại cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm biểu hiện một cách hình tượng, đặc điểm của một trong những đối tượng đó. So sánh tu từ có tác dụng tạo sắc thái biểu cảm, tạo cảm xúc cụ thể, sinh động, tạo tính hình tượng.
Thí dụ:
-Tiếng suối trong như tiếng hát xa - Hồ Chí Minh - Cảnh khuya
- Mặt ngay như cán tàn - Thành ngữ
... Đó là một sự so sánh có giá trị hình tượng và biểu cảm. Phương thức so sánh là một hình thức biểu hiện đơn giản nhất của lời nói có hình ảnh. Có thể nói rằng hầu như bất cứ sự biểu đạt hình ảnh nào cũng có thể chuyển thành hình thức so sánh.
II. Cấu tạo của phép so sánh:
Về mặt hình thức, so sánh khác với các cách chuyển nghĩa, ở chỗ bao giờ cũng gồm hai đối tượng lập thành hai vế. Các đối tượng này có thể là sự vật, tính chất hay hoạt động. Hai đối tượng gắn với nhau để tạo nên một hình thức so sánh. Mô hình đầy đủ của một phép so sánh  thường là
* A + từ so sánh + B  trong đó gồm:
- vế A nêu tên sự vật, sự việc được so sánh        
-  vế B nêu tên sự vật, sự việc dùng để so sánh với sự vật, sự việc nói ở vế A .
- Từ ngữ chỉ phương diện so sánh.
-Từ ngữ chỉ ý so sánh (từ so sánh): như, giường như, chừng như, hơn, thua, kém...
Trong thực tế mô hình trên có thể biến đổi. Các  từ ngữ chỉ phương diện so sánh và từ ngữ chỉ ý so sánh có thể được lược bớt. Vế B, từ so sánh có thể linh hoạt thay đổi vị trí
Thí dụ:     - Tình anh như nước dâng cao,
- Tình em như tấm lụa đào tẩm hương - Ca dao
- Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da - Nguyễn Du - Truyện Kiều
-Có khi mô hình trên đổi thành:
*Như B + A:
-Như chiếc đảo bốn bề chao ngọn sóng,
Hồn tôi vang vọng cả hai miền - Tế Hanh
Trong thơ ca nhờ cấu trúc cân đối và do sự cô động của ngôn ngữ thơ, nên nhiều khi giữa A và B không có từ so sánh:
Thí dụ:  -Gái thương chồng (A)đương đông buổi chợ(B)
              Trai thương vợ (A)nắng quái chiều hôm (B)- Tục ngữ
              - Người ngồi đó lớn mênh mông,(A)
               Trời xanh, biển  rộng, ruộng đồng, nước non.(B) - Tố Hữu
*A bao nhiêu B bấy nhiêu
Thí dụ:  Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu - Ca dao
* A là B: Từ là ở đây có giá trị tương đương với như, nhưng có sắc thái khác.Như mang sắc thái giả địnhcòn là mang sắc thái khẳng định.
Thí dụ: Nhân dân  bể,
Văn nghệ  thuyền.... - Tố Hữu - Việt Bắc
Thí dụ:- Họ là những chiến sĩ trẻ (họ như là những chiến sĩ trẻ)
         - Chủ nghĩa Lê nin là cái cẩm nang thần kỳ (… như là cái cẩm nang...)
(Hồ Chí Minh – Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê nin)
Xét về mặt nội dung, đối tượng nằm ở hai vế của phép so sánh là khác loại, nhưng lại có những nét nào đó giống nhau, nét giống nhau này có thể hoặc nổihoặc chìm.
Thí dụ:
Nổi:    Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân - Ca dao
Chìm:   Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. - Hồ  Chí Minh
(vắng mặt phương diện so sánh - làm cho người đọc có thể liên tưởng ở nhiều phương diện; tươi non, đầy sức sống, chứa chan hy vọng (gần với ẩn dụ)
Nét giống nhau nổi hoặc chìm này là cơ sở để cho phép so sánh có thể hình thành được và tạo nên hạt nhân nội dung của phép so sánh. Đó cũng là căn cứ để bình giá so sánh.
Một phép so sánh được xem là tốt, là “đắt” phải đồng thời thoả mãn được cả hai điều kiện sau đây:
a. Đối tượng đưa ra so sánh là khác loại.
b. Phát hiện được nét giống nhau giữa hai đối tượng khác loại, đó chính là tài năng của người sử dụng so sánh bộc lộ ra ở chỗ phát hiện đúng những nét giống nhau mà ít ai hoặc không ai để ý đến.
Thí dụ:                   Còn duyên thì gắn như keo
Hết duyên nghễnh ngãng như kèo đục vênh - Ca dao
Phải chăng câu ca dao này là lời trách móc của một người con gái đối với người con trai nào đó! Sự gắn bó của tình yêu so sánh với sự gắn bó của keo với nhau, hoặc của keo với một vật khác thì đó là một sự so sánh không phải không hay, vì người so sánh đã phát hiện rất đúng đắn nét giống nhau giữa hai đối tượng khác loại ( tình yêu và keo); nhưng cách so sánh này không phải là thật ‘mới mẻ”,bất ngờ. Song khi câu ca dao so sánh sự không gắn bó của tình yêu với sự “nghễnh ngãng” của cái kèo nhà bị đục vênh thì quả là một sự so sánh vừa độc đáo, vừa mang sắc thái dân tộc, bởi vì cách so sánh này không phải dễ dàng nhận thấy và phát hiện ra, cho nên nó luôn luôn mới mẽ, gợi hình và gợi cảm.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy so sánh là phương tiện giúp ta nhận thức sâu sắc hơn những phương diện nào đó của sự vật, là phương tiện giúp ta bày tỏ lòng yêu ghét, ý khen chê, thái độ khẳng định hoặc phủ định đối với sự vật. Do đó so sánh là phương tiện được dùng trong nhiều phong cách ngôn ngữ: trong khẩu ngữ cũng như văn viết, trong phong cách nghệ thuật  cũng như phong cách chính luận.
So sánh mang phong cách đặc trưng của của thời đại, phong cách dân tộc, phong cách tác giả. Tìm hiểu sự khác nhau giữa cách so sánh trong văn học cổ điển với văn học hiện đại, giữa cách so sánh trong ca dao với thơ ca bác học, giữa cách so sánh của nhà thơ này với nhà văn khác là một điều thú vị. Có người ưa dùng cách so sánh mang tính chất trí tuệ, có người ưa so sánh mộc mạc, chân chất, chính xác và pha màu hài hước như văn chương dân gian.
III. Đối tượng so sánh:
a.So sánh đồng loại:
- So sánh người với người:
Thí dụ: Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi tới trường cô giáo như mẹ hiền - Lời bài hát
- So sánh vật với vật:
Thí dụ: Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ- Vũ Tú Nam
b.So sánh khác loại:
- So sánh vật với người:
Thí dụ: Ngôi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh - Đồng Xuân Lan
- So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại:
Thí dụ:      Trường Sơn: chí lớn ông cha
 Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào - Lê Anh Xuân
          Công cha như núi Thái Sơn
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra - Ca dao
IV.Các kiểu so sánh
1.So sánh ngang bằng:  A là B ( những từ so sánh chỉ ý ngang bằng)
Thí dụ: Ba mẹ  lá chắn
            che chở suốt đời con - lời bái hát
2.So sánh không ngang bằng: A chẳng( chưa) bằng B ( những từ so sánh chỉ ý không ngang bằng)
Thí dụ:    Con đi đánh giặc mười năm
          
     Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi –Tố Hữu
Các từ so sánh
Kiểu so sánh
Là, như, y như, giống như, tựa như, tựa như là, bao nhiêu…bấynhiêu
So sánh ngang bằng

Hơn, không bằng, kém, chưa bằng, chẳng bằng…
So sánh ngang khôngbằng
V.Luyện tập:
1.Tìm hiểu cấu tạo của so sánh  trong các ví dụ mục II.III rồi điền vào bảng sau:
Vế A
(sự vật được so sánh)
Phương diện so sánh
Từ so sánh
Vế B
(sự vật dùng để so sánh)








2. Đọc, tìm, ghi lại những đoạn văn có chứa phép so sánh  trong các văn bản đã học hoặc đã đọc mà em thích.
Viết thành những đoạn văn trình bày lại cảm thụ của em.
3.Tìm các vế B..  của vế A- “Quê hương” trong bái hát “Quê hương” của Đỗ Trung Quân và phân tích giá trị biểu cảm của phép tu từ so sánh được sử dụng trong đó.
Gợi ý:
Trong bái hát “ Quê hương” Đỗ Trung Quân đã đem so sánh vế A(sự vật được so sánh) : Quê hương với rất nhiều  vế B(sự vật dùng để so sánh):
-  Chùm khế ngọt
-  Con diều biếc
-  Cầu tre nhỏ
-  Con đò nhỏ
-  Là đường đi học...
-  Như là chỉ một mẹ thôi!...
Vế A là một khái niệm trừu tượng, chỉ có một và lặp lại được đem so sánh ngang bằng mà lại không ngang bằng với rất  nhiều vế B...là những hình ảnh, sự vật cụ thể rất đỗi thân quen, gần gũi gợi nhớ chất chứa kỷ niệm, tình cảm thiêng liêng...Có thể nói Đỗ trung Quân đã “định nghĩa” Quê hương- một nội dung trừu tượng bằng những hình ảnh rất cụ thể... Một sự so sánh bề ngoài thì “nổi” thì “ngang bằng” nhưng thực ra lại là “ chìm”, là “không ngang bằng”, quê hương là tất cả... làm cho mỗi người đọc tự do liên tưởng, cảm nhận về quê hương  theo những cảm xúc ký ức riêng. Vì thế mà lời hát sinh động, gần gũi, mà vô cùng hàm súc và luôn tươi mới. Tác giả đã phát hiện ra hình ảnh và cách so sánh độc đáo gây được chú ý của nhiều người.
Nhờ thế mà lời thơ, bài hát đã nhanh chóng đi vào lòng người được giới trẻ thuộc lòng và hát say mê...


ST