Khổ 1 Đồng chí
Đồng chí ! Ôi tiếng
gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội
của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa
mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc
động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ
đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn
và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết, sâu nặng :
Quê hương anh nước mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là người lính cách mạng trong kháng
chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô tả chân
thực, giản dị mà cao đẹp. Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng
dồn lại ở một từ : Đồng chí. Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu đối nhau rất chỉnh:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ giới thiệu quê hương "anh" và “tôi” – những người lính
xuất thân là nông dân. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự
của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là
con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi “nước mặn đồng
chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá.Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi”
hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả.
Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở
nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người
con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên,
nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo
khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc,
họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ
Quốc.Hai câu thơ theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn
tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở
thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người
lính.
Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn “xa lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau,
thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa
những người nghèo, người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải
do cái nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng
chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh –
tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng
của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên
đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ
chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai
lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.
Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan
hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người
bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết
sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá
rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp
được bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ
“xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu
rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở
thành người bạn tâm giao gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu
sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính gian khổ. Bao nhiêu
yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình cảm hàm súc
ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính
nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương
với đồng đội. Hình ảnh thật giản dị nhưng rất cảm động.
Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ
« đồng chí ». Từ “đồng chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân
vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí’ với dấu chấm cảm như một nốt
nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng
cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích.
Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại
được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn
anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó.
Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có
tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung
mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn
là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng
đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho
quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén bao
cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả
thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
Với ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao nhằm
diễn tả cụ thể quá trình phát triển của một tình cảm Cách mạng thiêng liêng:
Tình đồng chí - một tình cảm chân thực không phô trương mà lại vô cùng lãng mạn
và thi vị. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng
chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Dường như Chính Hữu đã thổi
vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt
làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
(Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét